Chu chay 2

font size= "18 px "> Cạn dàu tim cháy thành tro .Những mong sáng cả đôi bờ nhân gian

Trang Anh

Philipin kien TQ về bien dao tai LHQ

Phát biểu tông thong Obama

Tân Lê -cô gái Úc gốc Việt tài danh

Ca voi chet dat vao bo bien Hue

Hoc tieng anh hieu qua.Tieng anh 123.com

Chủ Nhật, 29 tháng 9, 2013

NÉT GALANT CỦA VỊ TỔNG THỐNG LỪNG DANH

alt













MỜI THƯ GIÃN
Nét Galant của một vị Tổng thống lừng danh...
Một đêm, Tổng thống Obama và phu nhân Michelle đã quyết định thay đổi không khí và đi ăn một bữa ăn tối giản dị tại một nhà hàng không quá sang trọng. Khi họ đang ngồi, chủ nhà hàng đưa một lời đề nghị bí mật tới Tổng thống rằng ông có thể nói chuyện riêng với đệ nhất phu nhân được không. Tổng thống đồng ý và vợ ông, bà Michelle đã có một cuộc trò chuyện với chủ nhà hàng.

Thứ Sáu, 27 tháng 9, 2013

ĐẤT VÀ TRỜI - THơ TÔ HOÀN



ĐẤT VÀ TRỜI

Đất phấp phỏng như người
Trời thâm nghiêm u tịch

Đất - phần đời chân thực
Trời - cõi để mộng mơ

Trời làm gió làm mưa
Đất sinh hoa sinh quả

Trời gió trăng tung tỏa
Đất quắt quay nhọc nhằn

Đất khao khát âm thầm
Buồn vui tràn như cỏ

Trời nhập nhòe mây gió
Dắt nhau về hư không
                           TH

alt

Thứ Năm, 26 tháng 9, 2013

LÀM BÔNG CÚC TRẮNG ...NGUYỄN ĐƯƠNG




LÀM BÔNG CÚC TRẮNG ..

Làm bông cúc trắng bên đường
Thảnh thơi đất mật, gió sương tự giời
Bướm vàng bầu bạn dạo chơi
Có con chuồn ớt -mặt trời bé con

Buồn cho mấy bông hoa dơn
Một đời nước lọ gió hương không mùa
Hoa chưa nở đã tàn...thu
Một giây làm rác,đâu mùa véo von ?

                                       NĐ



Thứ Hai, 23 tháng 9, 2013

PHÉP ĐỜI - DƯƠNG TIẾN


alt
Nhà thơ:
DƯƠNG TIẾN

PHÉP ĐỜI
Suy ngẫm qua trò diễn Thị Màu

Giá như Thị Kính là nam
Làm sao giữ được vẹn toàn chân tu
Giá Mầu không ép anh Nô
Thì đâu có cuộc say sưa cả làng...
Mới hay đời lắm "trái ngang"
Cũng là biển khổ mênh mang cõi người
Ngàn năm khóc,vạn năm cười
Phép đời..là quả - bom- đời nổ tung
                                DT

Thứ Năm, 19 tháng 9, 2013

NHỮNG LỜI RÚT TỪ MÁU VÀ NƯỚC MẮT - NGUYỄN TRUNG


Nguyễn Trung
                                                               NGUYỄN TRUNG
NQL: Tiểu luận rất hay! Dường như cụ Nguyễn Trung đã vắt hết óc não, mồ hôi và nước mắt cho tiểu luận này.

Bàn thêm về ASEAN

Các phần trình bầy trên đã nêu lên những thách thức đối với nước ta. Tại đây xin nêu thêm một số ý kiến về thách thức đối với Việt Nam có liên quan đến ASEAN.


          ASEAN là một tập hợp do đòi hỏi của cuộc sống tự thân các nước ASEAN, nhưng tập hợp ASEAN vẫn còn đứng xa cái đích đã tạo ra nó: trở thành một hợp tác khu vực mang lại phát triển phồn vinh, hạnh phúc cho các quốc gia thành viên, bảo vệ và phát huy được vị thế quốc tế phải có của ASEAN.     

          Trở ngại lớn nhất cho việc thực hiện cái đích của ASEAN là (1)sự phát triển không đồng đều và (2) một số khác biệt / mâu thuẫn giữa các quốc gia thành viên do lịch sử (bao gồm cả những yếu tố văn hóa) và do hoàn cảnh địa kinh tế và địa chính trị của mỗi quốc gia thành viên tạo nên. Thực tế này là mảnh đất mầu mỡ cho mọi ý đồ can thiệp, lũng đoạn của bên ngoài[86].

Điều may mắn là những thách thức, đòi hỏi của phát triển tự thân các nước thành viên, cũng như đòi hỏi và sức ép đến từ bên ngoài khu vực, đang thúc đẩy ngày càng mạnh mẽ hợp tác của tập hợp ASEAN. Những nỗ lực nhằm hoàn tất việc xây dựng Cộng đồng Kinh tế ASEAN (CEA) vào năm 2015 phản ánh sự đang trưởng thành này. CEA được xây dựng trên 3 trụ cột là an ninh chính trị, kinh tế, và văn hóa xã hội; đấy sẽ là một dạng tập hợp tương tự như Liên minh Châu Âu (EU), song ở mức thấp hơn và có những khác biệt nhất định.

Thách thức lớn nhất đến từ ASEAN đặt ra cho Việt Nam là chính Việt Nam: Làm gì? và làm thế nào? để thực hiện được vai trò và nghĩa vụ của chính nước ta mà sự thành công của ASEAN đòi hỏi, mong đợi.

Muốn hay không muốn, nói ra hay không nói ra, vụ lợi hay không vụ lợi, có sự mong đợi từ ASEAN về một lá chắn Việt Nam đối với áp lực Trung Quốc. Cũng như vậy, Việt Nam cần một hẫu thuẫn trực tiếp từ ASEAN chống lưng cho mình trong đối phó với sóng bão Trung Quốc.

Thực trạng hiện nay là:

(1)       sự mong đợi từ ASEAN nước ta đáp ứng chưa tốt – trước hết vì sự đóng góp của Việt Nam vào phát triển và hợp tác của ASEAN còn rất khiêm tốn, Việt Nam vẫn đang thiếu một đường lối đối ngoại độc lập tự chủ và dấn thân, Việt Nam chưa có một nền tảng đối nội cho một đường lối đối ngoại mà vị thế của Việt Nam ngày nay đòi hỏi;  (theo tôi, không thể đổ lỗi tình trạng này cho sức mạnh kinh tế còn khiêm tốn của mình);

(2)        sự hậu thuẫn chống lưng cho Việt Nam đang có những lỗ thủng đáng lo ngại – chủ yếu do ảnh hưởng và sự can thiệp của quyền lực mềm Trung Quốc (trước hết vào Campuchia, Lào, Thái Lan…, chính sách bẻ từng que đũa của bó đũa…) và phần nào do bản thân sự phát triển của chính các nước thành viên ASEAN còn những hạn chế nhất định[87].

Nước ta đang đứng trước một thực tế rất nhạy cảm: Hoặc là Việt Nam thực hiện được vai trò và nghĩa vụ mà ASEAN mong đợi; trong trường hợp này ASEAN mạnh lên và Việt Nam cũng nhận được từ ASEAN và cộng đồng quốc tế điều mình mong đợi. Hoặc là trường hợp Việt Nam bất lực, thậm chí giả sử Việt Nam đi ngược lại mong đợi của ASEAN (ví dụ: giả thiết rằng Việt Nam và Trung Quốc “đi đêm” với nhau trong đàm phán song phương Việt – Trung…), Việt Nam sẽ rơi vào một thế bị cô lập nguy hiểm - không phải chỉ trong phạm vi ASEAN, mà còn trong phạm vi quốc tế[88].

Xin hình dung trước mắt ta là tấm bản đồ: Phía Bắc là Trung Quốc, phía Đông và Nam là sự uy hiếp của Trung Quốc trên Biển Đông, phía Tây là các “điểm ASEAN” đã bị Trung Quốc chọc thủng… Không thể nhắm mắt trước một tấm bản đồ như vậy. 

Hễ là người Việt Nam thì cần nhìn thẳng vào tấm bản đồ này và lựa chọn quyết định phải lựa chọn.

Trên thế giới ngày nay không còn liên minh ý thức hệ (ví dụ như sự ra đời và tồn tại “phe” XHCN trước đây), song lại có đòi hỏi bức thiết về liên minh của lợi ích cùng chiều, liên minh của các giá trị và của sự phát triển,. Điều này có nghĩa Việt Nam chỉ có thể có được một ASEAN như mình mong đợi, nếu Việt Nam tự phát triển và tự dấn thân mạnh mẽ.

Tự phát triển và tự dấn thân như vậy, thực sự là thách thức khó nhất, lớn nhất đặt ra cho Việt Nam hiện nay. Sẽ là vô ích và nguy hiểm, nếu ta chỉ một chiều trách cứ bạn bè thế nọ, thế kia… Đơn giản vì không thể có chuyện “mủi lòng thương cảm”, “sự thông cảm…” từ phía bạn bè khi bàn những vấn đề liên quan đến lợi ích quốc gia.

 Thách thức do sự hội tụ của mọi thách thức

(1) Sự tha hóa và bất cập của hệ thống chính trị trước đòi hỏi nóng bỏng phải chuyển đất nước ta bước sang một giai đoạn phát triển mới,

(2)  con rồng Trung Quốc đã bắt đầu nhe nanh vuốt của nó,

(3)  trục xoay của Mỹ hướng về CA-TBD,

(4) sự tự khẳng định ngày càng tăng của các cường quốc khu vực hướng vào khu vực CA-TBD,

(5) kinh tế thế giới đi vào một thời kỳ phát triển mới đang thay đổi sâu sắc sự  vận hành hiện nay của quá trình toàn cầu hóa – một phần việc cụ thể có liên quan của quá trình này là Việt Nam thực hiện các bước đi tham gia vào TPP và phải cùng với các thành viên ASEAN hoàn thành xây dựng cộng đồng CEA; 

đấy là 5 thách thức đang đặt ra trực tiếp cho nước ta hiện nay và trong những thập kỷ tới.

          (Còn thách thức thứ 6 là nguy cơ ASEAN bị phân hóa, song nguy cơ này còn tùy thuộc rất nhiều vào sự hiệp đồng giữa các thành viên ASEAN, cũng có nghĩa là tùy thuộc rất nhiều vào vai trò dấn thân của Việt Nam trong cộng đồng ASEAN; vì thế không muốn liệt kê vào đây).

          Điểm nổi  bật là cả 5 thách thức nói trên cũng hội tụ vào thời điểm hiện tại, mọi mối quan hệ qua lại của chúng cùng tác động đồng thời vào nước ta, tạo ảnh hưởng chi phối sự phát triển của nước ta trong những thập kỷ trước mắt.

          Sự hội tụ này có nghĩa:

a.     làm gia tăng tính triệt để của các thách thức,

b.    mọi giải pháp cho bất kỳ thách thức nào phải đồng bộ và liên quan hữu cơ đến những giải pháp cho các thách thức còn lại,

c.     không làm chủ được thách thức này hàm nghĩa sẽ thất bại hay khó tránh thất bại trước những thách thức khác,

d.    các giải pháp cho từng thách thức có thể hỗ trợ lẫn nhau, nhất thiết phải được thiết kế theo cách tạo ra sự hỗ trợ lẫn nhau, các giải pháp đòi hỏi phải có tầm nhìn, trí tuệ, ý chí và sự đồng thuận phù hợp trong toàn dân tộc;

e.     trong tất cả mối quan hệ qua lại hữu cơ giữa các thách thức, làm chủ và giải quyết thành công thách thức số 1 luôn luôn là khởi sự và là chìa khóa cho giải quyết thành công 4 thách thức còn lại.

          Để giải quyết cả 5 thách thức (1 – 5) với những đặc tính nêu trên (a – e), Việt Nam đứng trước đòi hỏi sống còn phải tiến hành thành công một cuộc cải cách triệt để hệ thống chính trị để trở thành một Việt Nam có bản lĩnh. Đây là chìa khóa giải quyết mọi vấn đề, mở ra cho đất nước một giai đoạn phát triển mới bắt buộc phải vươn tới.

Sự thật là, dù nhìn từ bất kể phương diện nào – đối nội hoặc đối ngoại, kinh tế hoặc chính trị hay quân sự, hoặc trên các phương diện văn hóa, xã hội.., - tình hình bắt buộc nước ta phải tiến hành một cuộc cải cách chính trị vỹ đại, để trở thành một quốc gia có bản lĩnh đứng vững vàng trong khu vực ngày càng trở nên nóng bỏng này…
          Cuộc cải cách chính trị này phải nhằm vào cái đích:

-        Phát huy được sức mạnh dân tộc, bắt đầu từ xây dựng một thể chế chính trị dân chủ pháp quyền, thực hiện quyền con người, giải phóng tự do cá nhân, từ đó làm nên sức mạnh vật chất và tinh thần của đất nước.

-        Bằng đường lối ngoại giao dấn thân tạo ra khả năng lan tỏa ảnh hưởng của Việt Nam cho một sự tập hợp lực lượng trên thế giới hậu thuẫn sư nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.

Không thể nói khác, đấy phải là cuộc cải cách dưới ngọn cờ dân tộc và dân chủ với tầm trí tuệ và ý chí của văn minh nhân loại ngày nay. 

Như vậy, hy vọng đã trình bầy rõ điểm xuất phát là thực trạng của đất nước hôm nay, cũng như cái đích phải đi tới của cuộc cải cách chính trị phía trước. 

Nghĩa là từng người Việt Nam phải cùng nhau thay đổi, cùng nhau trưởng thành lên ngang tầm đòi hỏi của đất nước, chứ không phải chỉ có riêng những người đảng viên ĐCSVN.

Câu chuyện còn lại là từ thực trạng đất nước hôm nay lựa chọn con đường nào? và với lộ trình nào? để đi tới cái đích phải đến nói trên.

Con đường lý tưởng của cải cách là con đường của công khai minh bạch, của thông tin, học hỏi, dân chủ, là con đường của thiện chí xây dựng, của phát triển, là con đường của đồng thuận xã hội ở mức cao nhất, là con đường cùng nhau thiết kế, cùng nhau khai phá, tiến hành.., là con đường được dẫn dắt bởi trí tuệ và các giá trị thuộc về các quyền tự do dân chủ của nhân dân… Quyết khép lại quá khứ, để làm bằng được như vậy. Quyết không phản bội bất kỳ hy sinh nào đã ngã xuống vì nước, không bỏ qua bất kỳ mất mát nào đất nước đã phải trả giá để có được hôm nay. Phải chắt chiu từng đồng tiền bát gạo đã dành dụm được, để vắt óc xây đắp lên những thành quả mới của đất nước trên con đường cải cách… Đó chính là con đường vận động dân chủ và trí tuệ từ dưới lên, vừa đặt ra đòi hỏi mạnh mẽ bất khả kháng của nhân dân và đồng thời vừa tạo thuận lợi cho việc tiến hành cải cách thể chế chính trị từ trên xuống trong hòa bình, hiểu biết, hòa giải, đồng thuận và đoàn kết dân tộc.

So với các nước LXĐÂ cũ, so với Myanmar hiện nay, có thể nói nước ta ngày nay hội đủ mọi điều kiện trong, ngoài tạo ra một khung khổ mang tính chất cam kết của đồng thuận xã hội, được nuôi dưỡng bằng ý chí của dân tộc, để tiến hành một cuộc cải cách bằng trí tuệ và hòa giải, không hồi tố, không đổ máu, không tiếng súng, đảm bảo kinh tế tiếp tục phát triển trong cải cách. Tất cả với mục đích duy nhất là vì Tổ quốc Việt Nam yêu quý của chúng ta, vì cuộc sống đáng sống của người dân Việt ta – đúng với tinh thần: dân chủ, độc lập, tự do, hạnh phúc.
Cải cách dứt khoát không chấp nhận con đường bạo lực, và không thể thành công bằng con đường này.

Có 2 luồng ý kiến chính:

-        Trong tình hình đối nội, đối ngoại đều nóng bỏng đối với nước ta như hiện nay, cải cách sao tránh khỏi dẫn đến một Ai-cập ở Việt Nam. Làm như thế để mà chết à?

-        Trong tình hình nước sôi lửa bỏng như hiện nay, cải cách là lối ra, là con đường sống.

Xin cứ nêu lên như thế để cùng bàn luận.

Người viết bài này xin lạm bàn:

Qua việc bàn luận sửa đổi Hiến pháp 1992, tình hình cho thấy luồng ý kiến thứ nhất rất rôm rả trong tranh luận bằng “độc thoại” trên nhiều báo chí chính thống (lề phải) và trong không ít phát ngôn quan trọng. Luồng ý kiến này nhấn mạnh: Ưu tiên số một là giữ ổn định chính trị, tình trạng yếu kém khó khăn của đất nước có thể được cứu chữa bằng đẩy mạnh tự phê bình và phê bình (tham khảo các ý kiến của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng tại các Hội nghị Trung ương 4, 5, 6; tham khảo các ý kiến của Hoàng Chí Bảo trong tranh luận kiểu độc thoại trên báo QĐND 25-08-2013 với Lê Hiếu Đằng). Thiết nghĩ, cách tiếp cận này là lựa chọn sự nhắm mắt để dễ bề chấp nhận cái chết lâm sàng, trước khi đi tới cái chết hẳn dù dưới dạng nào.

Luồng ý kiến thứ hai nêu ra nhiều kiến nghị cụ thể về sửa đổi Hiến pháp. Tiếc rằng chỉ được đăng tải trên “lề trái”. Rất nên phổ biến công khai các ý kiến của luồng này trên mọi phương tiện thông tin đại chúng của lề phải, để công luận cả nước cùng thảo luận. Tại đây chỉ muốn đặt câu hỏi: Nếu người cầm quyền tin rằng mình có chính nghĩa thì có gì phải tránh né thảo luận công khai minh bạch trong cả nước để tìm ra chân lý?

 “Đi với Trung Quốc giữ được chế độ nhưng mất nước? Đi với Mỹ giữ được nước nhưng mất chế độ và mất Đảng?…”

          Đấy là suy nghĩ nói lên thành lời của không ít vị lão thành trăn trở về vận mệnh đất nước hiện nay.

          Người viết bài này xin có lời bình: “Đi” như thế, e rằng trước sau rồi sẽ mất tất cả, để rồi sẽ phải làm lại từ đầu tất cả.

Bởi vì đi như thế với ai đi nữa, thân phận của đất nước ta vẫn là thân phận của nước bên thứ ba (the third player, the third party) như đã nói tới ở các phần trên. Gần 7 thập kỷ vừa qua nước ta đã không dưới một lần rơi vào cái thân phận nước bên thứ ba.., không dưới một lần bị thí, bị phản bội, bị cướp, bị móc túi.., và cuối cùng nước ta đang có chỗ đứng đầy âu lo như hôm nay trên bàn cờ thế giới.

Lịch sử ngoại giao nước ta 7 thập kỷ vừa qua còn cho thấy, đi với bên nào thì trước sau vẫn  rơi vào nguy cơ thường trực: Đi với một bên, chống một bên, với kết cục không bao giờ tốt đẹp.

Trong nước và trên thế giới có nhiều nhận xét xác đáng: Việt Nam đang thực hiện đường lối ngoại giao “leo dây”. Qua đó, cái yên thân Việt Nam giành được chỉ là cái yên thân luôn luôn chung chiêng, chao đảo trên dây. Cái ý chí không gì quý hơn độc lập tự do giành được qua sự yên thân này là cái tự do có khung trời hẹp bằng sợi dây ta đang đi trên nó. Cái dây ấy có thể bị giựt, bị đứt bất kỳ lúc nào. Khung trời tự do này cắt nghĩa sự lệ thuộc và phụ thuộc nguy hiểm đất nước đang mang trên mình như đã trình bầy trong các phần trên của bài này.

Còn phải tính toán thêm một yếu tố mới: Trong mọi bước đi cố phục hồi lại vị thế quốc tế đã từng có thời Xô-viết và trước nữa, Nga đang tiến hành nhiều hoạt động gia tăng sự có mặt của mình ở phía Đông. Thực tế này làm cho yếu tố Nga ngày càng đặm nét hơn tại khu vực biển Hoa Đông (liên quan đến đảo Kurin, đến Nhật) và trên biển Đông (bao gồm cả những nỗ lực muốn trở lại Cam Ranh). (Hiện nay trong vấn đề Syrie cũng vậy).

Hiện tượng mới này có thể đặt Việt Nam trước 2 tình huống:

(1)có thể khai thác yếu tố Nga để giảm bớt sự căng thẳng cho ta trong việc giữ cân bằng giữa hai đối trọng Mỹ - Trung? và

(2) phải chăng việc ta thực hiện cân bằng giữa 2 đối trọng Mỹ - Trung sẽ có thêm những khó khăn mới, nếu Nga cùng đi với Trung Quốc như đang làm trong vấn đề Syrie?

(Chú ý: Kịch bản Nga đi với Mỹ trong chiến lược “trục xoay” của Mỹ hoàn toàn loại trừ trong bối cảnh quốc tế hiện nay).

Suy cho cùng, cả 2 tình huống (1, 2) này chẳng lợi lộc gì cho nước ta. Hơn nữa, nước ta hầu như không thể có ảnh hưởng gì trong trò chơi tay ba này, kể cả trường hợp ta lựa chọn đối sách đi với một bên nào đó (dù là Nga). Cũng không thể loại trừ trò chơi tay ba này mang đến cho nước ta những vấn đề nhạy cảm và khó khăn mới. “Đi” với ai, trong trò chơi này, thân phận nước bên thứ ba đối với nước ta vẫn là một ác mộng.

Có thể tình huống 1 ở chừng mực nhất định có lợi cho Việt Nam – ví dụ như hiện nay Nga đang là người bán cho Việt Nam nhiều vũ khí quan trọng, quan hệ với Việt Nam có một bề dầy lịch sử được nhân dân cả hai bên trân trọng, vân vân… Song hiển nhiên những mối quan hệ Việt - Nga có quá khứ tốt đẹp này làm sao có thể so sánh được với tầm quan trọng của việc Nga đang muốn phục hồi vị thế cường quốc trước đây của mình. Nếu hình thành một trục Nga – Trung trong những vấn đề ở Bắc Phi (hiện nay đang manh nha trong vấn đề Syrie), liệu việc Việt Nam đi với Nga như thế sẽ có những hệ lụy gì? Hiện nay Nga đã đồng ý bán những vũ khí tối tân cho Trung Quốc như tên lửa S400, máy bay chiến đấu SU – 35… Vũ khí Nga bán cho Việt Nam kém hiện đại hơn (vì ta ít tiền hay không cần đến?)

Trong tình hình có một kịch bản Syrie ở Biển Đông (Nga đi với Trung Quốc), giả thử Việt Nam lựa chọn đi với một bên kép là Nga - Trung Quốc trong trò chơi tay ba này, hầu như chắc chắn Việt Nam đứng trước một hiểm họa mới khôn lường (là tiền đồn, là khu đệm cho liên kết Nga – Trung trong trò chơi tay ba đầy nguy hiểm này? V… v…). Chẳng lẽ bài học nóng hổi “7 cuộc chiến tranh trong 1 cuộc chiến tranh” hôm qua không nói lên điều gì với nước ta hôm nay?

Có một điều có thể thấy trước: Mối quan hệ giữa các nước lớn càng rối rắm và nhạy cảm, chắc chắn Nga sẽ càng bận bịu hơn nữa chăm lo đến vị thế quốc tế của mình. Và như thế, quan hệ Nga – Việt sẽ chỉ còn nằm lại trong danh mục phụ lục của chính sách đối ngoại Nga mà thôi.

Kịch bản Việt Nam đi với Mỹ trong vấn đề Biển Đông nói riêng và trong vấn đề “chiến lược trục xoay” nói chung – dù là có hay không có sự xuất hiện của Nga trong khu vực ĐNA này – cũng không hứa hẹn điều gì tốt đẹp. Vì “đi” như thế, ta sẽ lĩnh đủ đạn từ phía Trung Quốc, lại vẫn là rơi vào cái bẫy đi với một bên chống một bên. Nếu có cả Nga tham gia vào trò chơi này, thì màn kịch sẽ càng rối rắm và không bớt mùi máu trộn thuốc súng dành cho Việt Nam.

Kịch bản đi với Trung Quốc?

Đi với Trung Quốc như đã đi gần 70 năm qua? Đi với Trung Quốc như đã và đang đi từ Thành Đô cho đến hôm nay? “Đi” như thế chắc là đủ lắm rồi! Trở thành tiền đồn cho Trung Quốc thì nhân dân ta chắc chắn sẽ bác bỏ quyết liệt, và thế giới cũng sẽ tảy chay. Bây giờ rất cần mối quan hệ láng giềng bình đẳng, tôn trọng độc lập chủ quyền, tốt đẹp, tự trọng, bền vững đời đời với Trung Quốc, chứ không phải sự mầu mè 4 tốt và 16 chữ...

Muốn được như thế, phải chăng cái dĩ bất biến của Việt Nam là: Nhất thiết phải có bản lĩnh không trở thành nước bên thứ ba trong bất kỳ loại games nào của các ông lớn? 

Kịch bản là nước trung lập đứng ngoài cuộc chơi tay ba của Mỹ, Trung, Nga, hoặc đứng ngoài cuộc chơi tay đôi (trong đó có một bên kép Nga - Trung) không đặt ra cho Việt Nam. Đơn giản vì sẽ chẳng ai chịu để nước ta thoát khỏi thân phận nước bên thứ ba.  Nghĩa là ta có quỳ gối xin được trung lập, chắc thiên hạ cũng không ban cho!

Tóm lại, “đi”  như nói trên với ai cũng không được!

Trung lập cũng không được!

Nghĩa là không còn ngả đường nào khác ngoài con đường nước ta đã lựa chọn nhưng chưa làm sao dấn thân bước vào được, đó là: Chính ta cũng phải trở thành đối tác chiến lược, đối tác toàn diện của các đối tác. Đơn giản là làm gì có chuyện bắt tay nhau hay hân hoan vỗ tay bằng một bàn tay!

Xin nói huỵch toẹt ra thế này:

Hiện nay có lẽ Mỹ cũng chưa tin ta, mặc dù ta có vị trí và vị thế chiến lược quan trọng lắm. Thế thì làm sao ta là đối tác hợp tác toàn diện được?.. Vậy ta làm sao thực hiện được vỗ tay hay bắt tay nhau bằng hai bàn tay được – nghĩa là trong đó phải có một bàn tay là của phía Việt Nam?

Hiện nay Trung Quốc cũng ngờ vực ta. Trung Quốc thừa biết 4 tốt và 16 chữ là của rởm. Nhưng nội bộ Trung Quốc đặt câu hỏi: Việt Nam chập chờn? Bắt cá hai tay? Lật lọng? Việt Nam có bản lĩnh, hay khiếp nhược hay vật vờ?.. Báo chí Trung Quốc không dưới một lần nói “Việt Nam ăn cháo đá bát!”… Nghĩa là Trung Quốc không tin ta, coi thường ta, cũng chẳng sợ ta, cũng chẳng nể nang gì ta, có cơ hội thì còn làm cho ta ê chề nữa…

Vậy có cách gì làm cho cả Mỹ và Trung Quốc phải thay đổi cách suy nghĩ của họ về ta? Phải làm thế nào cho họ hiểu: Có một Việt Nam khác – một Việt Nam tự nó, cho nó, vì nó và vì lẽ phải, vì những giá trị toàn cầu… Đã đến lúc họ phải ứng xử đúng mực với một Việt Nam bản lĩnh như thế!..

Chúng ta cần nhìn thẳng vào sự thật:

-        Việt nam có một vị trí chiến lược địa chính trị và địa kinh tế rất đặc biệt tại Đông Nam Á.

-        Nhưng trong con mắt của hầu hết những diễn viên chính tại sân khấu CA - TBD, Việt Nam mới chỉ được coi là một vị thế công cụ quan trọng.

-        Bây giờ Việt Nam nhất thiết phải chủ đông chiếm được cho mình vị thế đối tác quan trọng và được tôn trọng. Không có sự lựa chọn nào khác.

Vâng, để chiếm được chỗ đứng là đối tác quan trọng trong chính sách đối ngoại của họ, nhất thiết ta phải là một Việt Nam của phẩm giá – được đo bằng những giá trị của dân tộc mình, những giá trị toàn cầu và được thể hiện thành hành động; mọi xảo ngôn chẳng giúp được gì[89].

Một Việt Nam biết tự trọng và muốn tạo ra lòng tin chiến lược (“diễn văn Shengri La”), nước ta nhất thiết phải là như thế, phải làm được như thế.

Cùng nhau vỗ tay hân hoan bạn bè, hay là bắt tay nhau hợp tác, đều phải có đủ hai bàn tay như thế, trong đó Việt Nam phải là một bàn tay như thế.

Ta còn thua kém các đối tác của ta về nhiều phương diện, nhưng vì thế địa kinh tế và địa chính trị của nước ta cho phép ta tham gia và có những đóng góp vào các mối quan hệ chung song phương / đa phương trong khu vực và toàn cầu đủ quan trọng, để ta cũng được thừa nhận là đối tác chiến lược, đối tác toàn diện.

Nhưng sự thật là hiện nay nước ta đang thiếu trầm trọng bản lĩnh, phẩm chất và trí tuệ để dấn thân trở thành một đối tác như thế, chứ không phải vì nước ta nghèo và lạc hậu. Nói nghiêm khắc, nước ta vẫn chưa ra khỏi cái tâm lý đối phó, chập chờn, ỷ lại, cầu xin, tâm lý mong được giúp, được chi viện![90]

Như vậy hiển nhiên, cái dĩ bất biến là: Phải trở thành một quốc gia có bản lĩnh, phẩm chất và trí tuệ - từ đó sẽ có thực lực để dứt khoát không cam chịu thân phận nước bên thứ ba. Nhưng làm sao Việt Nam trở thành một quốc gia như thế với chế độ chính trị toàn trị hiện hành?[91] Xin mỗi người Việt Nam, trước hết là các đảng viên ĐCSVN, hãy trả lời câu hỏi này.

Một khía cạnh khác: Ngày nay, trên ngôn từ, Việt Nam đã có quan hệ đối tác chiến lược, quan hệ đối tác toàn diện với tất cả các diễn viên chính trên sân khấu thế giới. Nhưng phải nói ngay, quan hệ thực chất của nước ta với tất cả những đối tác quan trọng này, kể cả với Trung Quốc có “16 chữ và 4 tốt”.., nước ta đều ở vị trí rất thấp trong chính sách đối ngoại của họ, đơn giản vì:

(1) về mọi phương diện thế và lực của nước ta đều yếu,

(2)  đường lối đối ngoại chập chờn của ta vì phải đi dây, nên khiến các đối tác quan trọng này của ta cũng đáp lại chập chờn theo (vì không có chuyện “free lunch” ở đây),

(3)  đi dây như thế không thể dấn thân được; điều này có nghĩa mãi mãi cam chịu giữ vị trí thấp trong mọi vấn đề, trong mọi cuộc chơi của các đối tác / đối thủ và của cả thế giới, chẳng bao giờ có thể  bình đẳng.

Một đường lối ngoại giao phải gánh chịu 3 nhược điểm lớn như thế, chung cuộc làm suy yếu đất nước, đặt đất nước trước nhiều hiểm họa.

Đến đây có thể kết luận: Bằng mọi giá, nước ta phải là chính mình, để thiết lập được các mối quan hệ đối ngoại mà sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước đòi hỏi. Đấy là: Bằng ngọn cờ dân tộc và dân chủ phát huy sức mạnh dân tộc, đi với cả thế giới.

Việt Nam nhất thiết phải đứng trên đôi chân của mình, quyết định những bước đi của mình, bởi vì lợi ích của mình đòi hỏi như vậy, bởi vì hòa bình và xu thế tiến bộ trên thế giới muốn có một Việt Nam như vậy. Đòi hỏi không thể thoái thác này xác quyết: Việt Nam phải trở thành một quốc gia của dân chủ, độc lập, tự do, hạnh phúc và hòa bình.
Xin hỏi: Có con đường nào đổi đời đất nước, đổi đời mỗi công dân để xây dựng nên một Việt Nam như thế, nếu không phải là con đường cải cách thể chế chính trị để tạo điều kiện thay đổi tất cả? Xin mỗi người Việt chúng ta – dù là ai, chính kiến nào, không phân biệt tôn giáo, sắc tộc, đảng viên ĐCSVN hay không phải đảng viên ĐCSVN, sống ở trong nước hay nước ngoài – với tất cả tình thần trách nhiệm “Nước Việt Nam là của người Việt Nam!”[92], với tất cả tinh thần đoàn kết hòa hợp và hòa giải dân tộc, hãy suy nghĩ về điều này.

Còn một sự thật nữa: Nước ta có một vị thế rất quan trọng trong chính sách đối ngoại của tất cả các đối tác quan trọng, lớn cũng như nhỏ, các nước thành viên ASEAN…, nhìn theo phương diện tiêu cực, cũng như theo phương diện tích cực.

Nhìn theo phương diện tiêu cực: Nếu thống soái được Việt Nam, sẽ làm được nhiều chuyện. Ví dụ, nếu biến được Việt Nam thành một bàn đạp cho Trung Quốc tiến xuống phía Nam và ra Biển Đông!..

Nêu lên như vậy là để bàn cho hết nhẽ. Cứ cho là Trung Quốc rất muốn, nhưng có thể phương án này trong thực tế sẽ không khả thi hay rất khó khả thi. Vì hầu như chắc chắn nhân dân Việt Nam sẽ từ chối đến cùng một phương án như vậy, và chắc cũng sẽ nhân dịp này quét sạch luôn mọi ảo tưởng, phản bội, hay đầu hàng ăn theo phương án này.

Xin nhắc lại, Trung Quốc trước đây đã đôi ba lần đề nghị với Mỹ phương án chia đôi Thái Bình Dương.

Thứ Ba, 17 tháng 9, 2013

THẮP LỬA ĐÈN CÙ - NGUYỄN ĐƯƠNG



THẮP LỬA ĐÈN CÙ

Ta về thắp lửa đèn cù
Ngắm bao triều đại mịt mù vòng quanh
Qua thời minh chúa minh quân,
Vua hèn tôi nhát...nịnh thần gian manh

Thương bao khốn khó dân lành
Củ khoai hạt gạo chia phần đói no
Làng ta vẫn gọi " làng Đò "
Gái trai nuôi lớn làm cho láng giềng

Làng ta còn giữ nét riêng
Vẫn con chó đá ngó nghiêng cổng làng

                                 NĐ


Thứ Sáu, 13 tháng 9, 2013

Một bài phỏng vấn để ta suy ngẫm! ( Trên báo Sài gòn tiếp thị)

                                                   
                                                              Giáo sư Cao Huy Thuần



Tổ quốc nhìn từ xa

LTS: Nhà thơ Nguyễn Duy có bài Nhìn từ xa… Tổ quốc: “Dù ở đâu vẫn Tổ quốc trong lòng, cột biên giới đóng từ thương đến nhớ”. Một nhà sử học cũng bảo: Cứ đi ra biển xa mà ngắm về dải đất liền của Tổ quốc, mới thấy cái rưng rưng xúc động của việc nhìn ngắm Tổ quốc từ xa, và nghiệm về dân tộc, về đất nước hình chiếc liềm trong thế giữ Biển Đông. 
Mừng ngày Độc lập, trên Sài Gòn Tiếp Thị số đặc biệt này, có những người Việt xa xứ chia sẻ những cảm xúc, những tâm sự của mình cho niềm mong mỏi thế nước mạnh hơn, dân ta ấm no hơn và tộc Việt mãi trường tồn. Đó là các học giả Cao Huy Thuần (Pháp), Vũ Minh Khương (Singapore), Lê Văn Cường (Pháp), Nguyễn Văn Tuấn (Úc), Nguyễn Phương Mai (Hà Lan).



 Từ nền độc lập nghĩ về văn hoá hoà bình

SGTT.VN - Từ Pháp, giáo sư Cao Huy Thuần     chia         sẻ    những hoài niệm của chính ông, một nhân chứng    lịch sử của thời khắc tháng 8. 1945. Ông có những trăn trở chân thành của mình đối với sự phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay....

Thưa Giáo sư, cảm xúc của Giáo sư là thế nào khi nghĩ về ngày độc lập 2.9 của đất nước? 



“Máu ấy đỏ chung trên lá cờ của chúng ta, phấp phới như một mảnh hồn chung”. Ảnh: Trần Việt Đức



Tôi nghĩ đến bao nhiêu xương máu đã đổ ra để giành lại độc lập và bảo vệ độc lập. Bài quốc ca của chúng ta có câu: "Đường vinh quang xây xác quân thù". Đúng vậy. Nhưng đường vinh quang cũng xây xác bao nhiêu chiến sĩ, bao nhiêu thường dân, bao nhiêu máu của cả dân tộc, không phân biệt. Máu ấy đỏ chung trên lá cờ của chúng ta, phất phới như một mảnh hồn chung, nhắc nhở chúng ta đừng quên: độc lập ấy là máu của cả dân tộc từ Bắc chí Nam, vinh quang ấy là vinh quang của cả dân tộc từ Nam chí Bắc.

Ngày độc lập có gắn với kỷ niệm nào của Giáo sư không?

Tôi thuộc thế hệ những người được sống với nền độc lập 1945. Năm ấy, tôi 8 tuổi, kỷ niệm đầy ắp. Là nhi đồng Cứu quốc trong đội văn hóa của huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi, tôi đi hát lưu diễn từ huyện này qua huyện khác, có khi cả tuần không về nhà, ghẻ lở khắp lưng vì không tắm rửa, vì ngủ sau sân khấu, vì ăn toàn mắm với cơm độn khoai.

Thay mặt thiếu nhi, tôi được vinh dự nhảy lên bục, hô hào toàn quốc kháng chiến, "thưa đồng bào, quân Pháp đã đổ bộ lên Tân Gia Ba", chẳng biết Tân Gia Ba là cái gì, ở đâu. Quảng Ngãi là đất màu mỡ của cách mạng, nhiều anh học trò của cha tôi xung phong vào Nam ngay từ khi mở mặt trận và chết ngay trong những trận đầu tiên, tuổi chưa tròn mười tám. Tôi đã chảy nước mắt với chiếc khăn tang quấn trên đầu chị vợ chưa cưới của một anh trong số đó. Chị đẹp làm tôi não nùng. Hình ảnh đầu tiên về chiến tranh trong ký ức của tôi là như vậy: chị đẹp, anh trẻ, và chiếc khăn tang.

Chiến tranh là bạo lực, hòa bình là pháp luật. Chiến tranh là sa trường, hòa bình là nghị trường. Chiến tranh là lạnh lùng của bộ máy, hòa bình là nồng ấm của hơi thở con người...

Lãng mạn chăng? Đúng vậy. Nhưng tôi đang nói đến bối cảnh đặc biệt của 1945 và không khí tiểu tư sản trí thức chung quanh tôi. Kháng chiến thuở đầu nhuốm đầy phong vị lãng mạn vừa trí thức vừa anh hùng. Xung phong vào Nam, các anh coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. "Một lần đi là không trở về", thiếu nhi chúng tôi cũng hát như các anh, tất cả đều là Kinh Kha qua sông Dịch. Từ giã người yêu, chẳng ai nồng cháy một cái hôn, chỉ lạnh lùng để khỏi vương vấn: "lạnh lùng vung gươm ra sa trường". Sự thực, tôi chẳng thấy ai đeo gươm, chỉ đôi khi thầm phục trái lựu đạn cài bên hông. Mà lựu đạn ấy cũng biết lãng mạn: có trái không nổ. Tôi nghe nói có nhiều anh chết khi xung phong chỉ vì lựu đạn không nổ. Nhưng sá gì! Các anh chết với nụ cười và bài hát trên môi: "Quyết chiến sa trường. Sống thác coi thường. Mong xác trong da ngựa bọc thân thể trai..."

Kháng chiến khởi đầu không thể hào hùng đến thế nếu thiếu đi cái chất lãng mạn anh hùng ấy trong dòng máu thanh niên trí thức, nếu thiếu đi những bài thơ trữ tình yêu người yêu nước trong balô của anh bộ đội. Ít nhất là trong vòng các anh thanh niên mà tôi biết lúc đó, có hai dòng máu lãng mạn chảy trong huyết quản: một dòng bắt nguồn từ tiểu thuyết của Tự Lực Văn Đoàn, một dòng bắt nguồn từ câu thơ trong Chinh phụ ngâm: "Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt / Xếp bút nghiên theo việc đao cung". Tại sao tôi dám nói thế? Tại vì, từ huyện này qua huyện khác, tôi đã nghêu ngao một câu hát ấy mà về sau tôi không còn nghe ai hát nữa ngoài anh Trần Văn Khê: "Xếp bút nghiên lên đường tranh đấu/ Xếp bút nghiên coi thường công danh như phù vân/ Sơn hà nguy biến, tiến ta tiến!/ Hèn thay đời nhàn cự, hèn thay vui yêu đương/ Lúc quê hương cần người, dứt đường tơ vương, giã nhà lên yên..."

Không Chinh phụ ngâm thì là gì? Tất cả là thơ. Kháng chiến là thơ. Mà làm gì anh bộ đội có những bài thơ hay thế trong ba lô nếu không có Tự Lực Văn Đoàn khai hoa nở nhụy cho thơ mới? Tất cả thanh niên trí thức chung quanh tôi thời ấy đều mang Nhất Linh, Khái Hưng, Xuân Diệu trong hơi thở. Tất cả đều là tình nhân của cô Loan, cô Thoa.

Tôi muốn nói thêm: cái chất lãng mạn anh hùng của thời 45 ấy truyền thừa cho đến các anh chị sinh viên miền Nam chúng tôi thời 63 và sau đó. Giọt máu - và bây giờ giọt nước mắt - mà các anh chị thấm vào trang sử thời ấy, các anh chị thử ngửi xem, có phải nó thơm mùi thơ, mùi văn, hương đồng gió nội rất lãng mạn? Nếu không phải thì tại sao các anh thích hát Trăng mờ bên suối ở những dịp nghiêm trang? Tất cả các anh thanh niên trí thức thời 45, tất cả, hoặc gần như thế, các anh chị sinh viên thời Huế-Sài Gòn năm xửa năm xưa, tất cả đều là thi sĩ dù có làm thơ hay không, bởi vì tất cả đều mang chất thơ của văn hóa Việt Nam trong máu. Đừng quên rằng cái lãng mạn của Tự Lực Văn Đoàn cũng là cái lãng mạn phản kháng. Phản kháng một tư tưởng cổ hủ xiềng xích tự do của con người. Chất thơ văn trong máu các anh chị buộc các anh chị phải phản kháng, từ 45 cũng như từ 63. Trước bạo lực, cường quyền, bất công, các anh chị không khuất phục. Như thế hệ trí thức 45 đã không khuất phục. Ngày 2.9 năm nay, tôi hướng về cái chí khí thanh niên đó.


"Theo Giáo sư, vì sao một dân tộc từng ngẩng cao đầu trong những cuộc đấu tranh chống ngoại xâm để giữ nước, nhưng lại là một dân tộc quẩn quanh với mệt nhoài ở những chặng hòa bình tìm kế bứt phá vươn lên?"


Chiến tranh có quy luật của chiến tranh. Hòa bình có quy luật của hòa bình. Trở về lại với bài quốc ca, năm 1945 chúng tôi hát: "Thề phanh thây uống máu quân thù" mà chẳng thấy gì ghê rợn. Bây giờ chúng ta hát: "Đường vinh quang..." Thế là "văn hóa" của chiến tranh đã khác với văn hóa của hòa bình rồi! "Mỗi ngày anh du kích giết được 3 thằng Tây, vậy 10 ngày anh giết được bao nhiêu thằng?", ấy là bài toán đố lớp tiểu học hồi 1950.

Bây giờ không ai ra toán kiểu đó nữa. Tuy vậy, chiến tranh vẫn chưa ra khỏi cái đầu và thực tế chính trị. Như một quán tính, chiến tranh vẫn đè nặng trên tư duy. Ta và địch vẫn mãi đánh nhau trong đầu óc, với căm thù, thủ đoạn và bạo lực, ngăn cản mọi suy nghĩ về sự cần thiết tất nhiên của cạnh tranh chung sống trong hòa bình. Có cần phải nhắc lại rằng chiến tranh không có văn hóa? Không ai nói "văn hóa chiến tranh". Chỉ có văn hóa hòa bình.

Đừng áp dụng quy luật của thời chiến vào giai đoạn của thời bình. Một bên là nước mặn, một bên là nước ngọt. Chiến tranh là chỉ huy, hòa bình là nghe ý kiến. Chiến tranh là mệnh lệnh, hòa bình là biện luận. Chiến tranh là đại bác, hòa bình là cây bút. Chiến tranh là sắt thép, hòa bình là tơ lụa. Chiến tranh là thù địch, hòa bình là đối thủ. Chiến tranh là cưỡng bức, hòa bình là thuyết phục. Chiến tranh là lý lịch, hòa bình là vua Trần xí xóa. Chiến tranh là bạo lực, hòa bình là pháp luật. Chiến tranh là sa trường, hòa bình là nghị trường. Chiến tranh là lạnh lùng của bộ máy, hòa bình là nồng ấm của hơi thở con người. Chiến tranh là nhất cực, hòa bình là đối trọng. Chiến tranh là con ó quắp mũi tên nơi móng, hòa bình là con bồ câu lông trắng, chân son, và mắt ôi là bồ câu.

Hòa bình mà cứ dùng khí giới của chiến tranh để đối thoại thì "văn hóa" ấy không phải là động lực của phát triển. Đó là cản trở phát triển. Cản trở về mọi mặt, mọi lĩnh vực.


"Thách thức lớn nhất đối với việc phát triển đất nước hiện nay là gì, thưa Giáo sư?"

Thứ Bảy, 7 tháng 9, 2013

TÌM - NGUYỄN ĐƯƠNG


     TÌM

Đời sông tìm ra biển
Dẫu vị mặn đắng lòng

Đời cây tìm ánh sáng
Dẫu uốn cành ,vít cong

Đời người tìm sự thật
Dẫu con đường gai chông

                   NĐ