Thứ Tư, 19 tháng 3, 2014
VỌNG PHU - NGUYỄN ĐƯƠNG
VỌNG PHU
Đá tạc nên hình
hay nỗi đau
đã tạc hình lên đá?
Người đàn bà bồng con đỉnh núi
chờ chồng
đã mấy mươi năm...!
Mặc lửa nung ngày hạ
Mặc tuyết phủ trời đông
Đá vô tri,
hay chị dạ sắt gan đồng
Giữa chốn non mây
bao năm chờ đợi
Đất nước bốn nghìn năm lịch sử
được bao ngày trọn vẹn niềm vui!
Hết Tầu, Tây, Nhật , Mỹ
Cuộc chiến chinh chẳng lúc nào ngừng!
Máu đỏ lá rừng
Xương phơi trắng núi
Đất nước tôi...
Từ Nam ra Bắc
Có nơi nào không có Đá Vọng Phu...!
NĐ
Thứ Sáu, 14 tháng 3, 2014
Tuyên bố Vận động thành lập Văn đoàn độc lập Việt Nam
Tuyên bố Vận động thành lập Văn đoàn độc lập Việt Nam
(trang Web của Văn đoàn: Văn đoàn độc lập Việt Nam)
Sau năm 1975, kết thúc một thời kỳ lịch sử kéo dài hơn trăm năm, đất nước cần một cuộc phục hưng dân tộc căn bản, mà nền tảng là phục hưng văn hóa. Tiếc thay công cuộc cần thiết và nghiêm trang ấy đã không diễn ra như mong đợi. Trái lại văn hóa Việt Nam ngày càng suy thoái nghiêm trọng, lộ rõ nguy cơ đánh mất những giá trị nhân bản căn cốt nhất, uy hiếp đến cả sự tồn vong của dân tộc.
Những người viết văn tiếng Việt không thể nói rằng mình hoàn toàn không có phần trách nhiệm về thực trạng đó. Một trong những chức năng quan trọng nhất của văn học là thức tỉnh lương tri và bồi đắp đạo đức xã hội. Trong bước ngoặt lớn này của lịch sử, văn học Việt Nam đã không làm đúng được vai trò của mình.
Văn chương Việt Nam yếu kém có nguyên nhân chủ quan trước tiên thuộc chính người cầm bút là sự thờ ơ đối với trách nhiệm xã hội, vô cảm trước thời cuộc, quan trọng hơn nữa là thiếu độc lập tư duy, từ đó mà tự hạn chế năng lực sáng tạo.
Thứ Sáu, 7 tháng 3, 2014
NHÀ THƠ NGUYỄN ĐÌNH THI VÀ BÀI THƠ 'LÁ ĐỎ'
NHÀ THƠ NGUYỄN ĐÌNH THI VÀ BÀI THƠ 'LÁ ĐỎ'
Lựa
lúc công việc của ông vừa dứt, tôi xin đăng ký được gặp ông vài chục
phút về bài thơ Lá đỏ. Ông lưỡng lự một lúc rồi như thông cảm với vẻ mặt
cầu khẩn của tôi, rồi nói nhẹ nhàng, ôn gtồn và dứt khoát: sáng thứ hai
vậy nhé. Đầu giờ, nhớ đinh ninh lời hẹn, sáng thứ hai tôi đứng sẵn ở
cầu thang máy vào lúc 8 giờ kém 5 phút. Chờ cho ông vào trong phòng nghỉ
ngơi một chút rồi tôi nhẹ nhàng gõ cửa.
Lá đỏ
Gặp em trên cao lộng gió
Rừng lạ ào ào lá đỏ
Em đứng bên đường
như quê hương
Vai áo bạc quàng súng trường
Đoàn quân vẫn đi vội vã
Bụi Trường Sơn nhòa trời lửa
Chào em, em gái tiền phương
Hẹn gặp nhé giữa Sài Gòn.
1974.
Ông nhìn tôi như chưa nhớ ra việc gì. Tôi vội nhắc:
Rừng lạ ào ào lá đỏ
Em đứng bên đường
như quê hương
Vai áo bạc quàng súng trường
Đoàn quân vẫn đi vội vã
Bụi Trường Sơn nhòa trời lửa
Chào em, em gái tiền phương
Hẹn gặp nhé giữa Sài Gòn.
1974.
Ông nhìn tôi như chưa nhớ ra việc gì. Tôi vội nhắc:
-
Dạ, sáng nay theo lời hẹn ông dành cho ít phút cho bài thơ Lá đỏ. Ông
nhớ ra và nói: Việc này thì Phạm Tiến Duật cũng biết rõ. Nói vậy nhưng
ông vẫn chỉ chiếc ghế cho tôi ngồi và tôi hiểu phải thật nhanh chóng
thực hiện “chương trình” kẻo có khách vào lại phải hoãn không biết đến
bao giờ. Vậy là tôi bắt ngay vào việc.
Phóng viên: Thưa ông! Lá đỏ là bài thơ được nhiều người ưa thích, xin ông vui lòng cho bạn đọc biết hoàn cảnh ra đời và cảm xúc lớn nhất của ông khi viết bài thơ? Vì sao bài thơ không thể mang một cái tên khác?
Nhà thơ Nguyễn Đình Thi: mùa thu năm 1974 tôi cùng các anh Tế Hanh, Đinh Đăng Định, Phạm Tiến Duật đi trên một chiếc xe vào Trường Sơn. Đang đi trên đường bỗng thấy một anh bộ đội cứ giơ hai tay ra hiệu cho xe dừng lại và chỉ lên trời. Chúng tôi vội xuống xe và nhảy ra ngoài, lăn xuống một hẻm núi, Một tiếng nổ vang trời, chiếc xe tan tành. Thật không ngờ tất cả chúng tôi đều sống sót. Sau đó chúng tôi lại tiếp tục đi bộ. Trên đường thấy nhiều bộ đội kéo pháo, xe tải người đi nườm nượp vội vã hối hả. Tôi hiểu sắp có một trận đánh lớn. Vậy mà tôi thấy có rất nhiều phụ nữ, nhiều những em gái trẻ trung mảnh mai đứng ở những nơi nguy hiểm, dẫn đường cho xe qua suối, hoặc qua những quãng đường khó.
Ở
nơi bom đạn chiến trường ác liệt ấy tôi không thể nghĩ lại có nhiều phụ
nữ tham gia như vậy. Tôi nhớ hồi chống Pháp cũng thế, dân công trở gạo,
trở vũ khí, đạn dược rồi y tá, đa phần là phụ nữ. Họ ra tận chiến hào
cúng bộ đội đánh giặc. Có lẽ tôi chưa thấy ở đâu trong cuộc chiến tranh
ái quốc, người phụ nữ lại tham gia đông đảo, hồn nhiên, dũng cảm và lạc
quan như ở Việt Nam. Đó là cảm xúc lớn nhất tạo nên thi hứng sáng tạo
của bài thơ, tôi đã viết:
Đoàn quân vẫn đi vội vã
Bụi Trường Sơn nhòa trời lửa
…
Em đứng bên đường như quê hương
Vai áo bạc quàng súng trường.
Vượt qua nhiều chặng đường nguy hiểm, chúng tôi đến những cánh rừng giáp Lào, tôi thấy rừng mùa thu ở đây toàn lá đỏ. Rất lạ và rất đẹp. Tôi nhặt một chiếc lá ép vào cuốn sổ và tối đó tôi viết bài thơ Lá đỏ. Bài thơ được đọc lần đầu ở Cục Chính trị Tây Nguyên.
Phóng viên: Vậy là bài thơ đã có mặt kịp thời ở chiến trường trong giai đoạn ác liệt nhất, để sau đó ta có chiến thắng lịch sử của chiến dịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Như một nhu cầu tất yếu về đời ssóng tinh thần của những người lính, bài thơ được phổ nhạc và hát rất nhiều, rất rộng rãi, kỷ niệm của ông về bài ca đó?
Nhà thơ Nguyễn Đình Thi: Tôi không nhớ bài thơ đó được phổ nhạc khi nào. Chỉ biết nhạc sĩ Hoàng Hiệp phổ nhạc. Sau sáu tháng đi bộ vào các tỉnh Mỹ Tho, Tiền Giang, Long An… tôi sáng tác được một số bài thơ và trở ra bắc. Sau chiến thắng năm 1975, tôi thắy người ta hát rất nhiềubài Lá đỏ và bài Trường Sơn đông Trường Sơn tây của Phạm Tiến Duật.
Phóng viên: Thưa ông chặng đường cách mạng mà ông đi qua đến giờlà gần 60bnăm và chặng đường sáng tác của ông cũng đã qua hơn 50 năm. Điều tâm đắc nhất ông có thể tâm sự với thế hệ trẻ, đặc biệt là với những người cầm bút?
Nhà thơ Nguyễn Đình Thi: Tôi tham gia hoạt động cách mạng năm 1941, năm 1946 tôi về công tác tại Hội văn hóa Cứu quốc cùng với Văn Cao và Nguyễn Tuân. Sau đó tôi vào hẳn trong quân đội thuộc trung đoàn thủ đô 102. Qua những năm chiến tranh ở chiến trường của cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, tôi chứng kiến sự hy sinh vô cùng lớn lao của dân tộc ta. tôi nghĩ tất cả những gian khổ màg tôi đã trải qua và cả những khó khăn trong cuộc sống hôm nay cũng không đáng kể gì bởi tôi vẫn đang được sống, còn bao nhiêu ngừi mẹ, người chị, người em, bao nhiêu đồng đội, đồng chí của tôi đã vĩnh viễn không trở về. Lại còn bao nhiêu ngừi phải chịu hậu quả của cuộc chiến tranh như chất độc màud da cam đã hủy hoại cuộc ssóng của các con, cháu họ. Còn biết bao những ngừi phụ nữ chịu đựng nhiều mất mát, hy sinh, những cô gái thanh niên xung phong chịu tàn tật cả đời mình, không hạnh phúc riêng… Sự hy sinh của dân tộc ta lớn lắm, ý thức dân tộc của người Việt Nam ta lớn lắm. Đó là món nợ mà những người cầm bút phải trả. (Điều đó giải thích vì sao hầu hết các tác phẩm của tôi viết đều về đề tài chiến tranh).
Ở thời kỳ kinh tế thị trường hiện nay, trong đời thường, chỗ này, chỗ khác, có thể ý thức dân tộc bị xao nhãng xong tôi vẫn luôn tin rằng: dân tộc ta gặp phải một thử thách nào (đơn giản là tai họa lũ lụt vừa qua) thì ý thức dân tộc trong mỗi ngươi Việt Nam lại bùng lên, kết lại thành sức mạnh cảu truyền thống nhân văn. Họ đặt quyền lợi tập thể lên trên lợi ích cá nhân mình. ….. viết vở Rừng Trúc vừa rồi không ngoài ý tưởng đó. Từ sâu thẳm của nhận thức, người Việt Nam ta hiểu rằng lợi ích cá nhân không khi nào toàn vẹn khi lợi ích của dân tộc bị xâm hại.
Tôi nghĩ người cầm bút có thể viết và cống hiến cho xã hội tùy theo khả năng của mình, nhưng cần phải sống sao cho xứng đáng với sự hy sinh của bao người để có được ngày hôm nay, và sống xứng đáng với ý thức dân tộc, với truyền thống văn hóa ngàn đời của người Việt Nam.
Phóng viên: Xin cảm ơn ông. Chúc ông nhiều sức khỏe.
Bụi Trường Sơn nhòa trời lửa
…
Em đứng bên đường như quê hương
Vai áo bạc quàng súng trường.
Vượt qua nhiều chặng đường nguy hiểm, chúng tôi đến những cánh rừng giáp Lào, tôi thấy rừng mùa thu ở đây toàn lá đỏ. Rất lạ và rất đẹp. Tôi nhặt một chiếc lá ép vào cuốn sổ và tối đó tôi viết bài thơ Lá đỏ. Bài thơ được đọc lần đầu ở Cục Chính trị Tây Nguyên.
Phóng viên: Vậy là bài thơ đã có mặt kịp thời ở chiến trường trong giai đoạn ác liệt nhất, để sau đó ta có chiến thắng lịch sử của chiến dịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Như một nhu cầu tất yếu về đời ssóng tinh thần của những người lính, bài thơ được phổ nhạc và hát rất nhiều, rất rộng rãi, kỷ niệm của ông về bài ca đó?
Nhà thơ Nguyễn Đình Thi: Tôi không nhớ bài thơ đó được phổ nhạc khi nào. Chỉ biết nhạc sĩ Hoàng Hiệp phổ nhạc. Sau sáu tháng đi bộ vào các tỉnh Mỹ Tho, Tiền Giang, Long An… tôi sáng tác được một số bài thơ và trở ra bắc. Sau chiến thắng năm 1975, tôi thắy người ta hát rất nhiềubài Lá đỏ và bài Trường Sơn đông Trường Sơn tây của Phạm Tiến Duật.
Phóng viên: Thưa ông chặng đường cách mạng mà ông đi qua đến giờlà gần 60bnăm và chặng đường sáng tác của ông cũng đã qua hơn 50 năm. Điều tâm đắc nhất ông có thể tâm sự với thế hệ trẻ, đặc biệt là với những người cầm bút?
Nhà thơ Nguyễn Đình Thi: Tôi tham gia hoạt động cách mạng năm 1941, năm 1946 tôi về công tác tại Hội văn hóa Cứu quốc cùng với Văn Cao và Nguyễn Tuân. Sau đó tôi vào hẳn trong quân đội thuộc trung đoàn thủ đô 102. Qua những năm chiến tranh ở chiến trường của cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, tôi chứng kiến sự hy sinh vô cùng lớn lao của dân tộc ta. tôi nghĩ tất cả những gian khổ màg tôi đã trải qua và cả những khó khăn trong cuộc sống hôm nay cũng không đáng kể gì bởi tôi vẫn đang được sống, còn bao nhiêu ngừi mẹ, người chị, người em, bao nhiêu đồng đội, đồng chí của tôi đã vĩnh viễn không trở về. Lại còn bao nhiêu ngừi phải chịu hậu quả của cuộc chiến tranh như chất độc màud da cam đã hủy hoại cuộc ssóng của các con, cháu họ. Còn biết bao những ngừi phụ nữ chịu đựng nhiều mất mát, hy sinh, những cô gái thanh niên xung phong chịu tàn tật cả đời mình, không hạnh phúc riêng… Sự hy sinh của dân tộc ta lớn lắm, ý thức dân tộc của người Việt Nam ta lớn lắm. Đó là món nợ mà những người cầm bút phải trả. (Điều đó giải thích vì sao hầu hết các tác phẩm của tôi viết đều về đề tài chiến tranh).
Ở thời kỳ kinh tế thị trường hiện nay, trong đời thường, chỗ này, chỗ khác, có thể ý thức dân tộc bị xao nhãng xong tôi vẫn luôn tin rằng: dân tộc ta gặp phải một thử thách nào (đơn giản là tai họa lũ lụt vừa qua) thì ý thức dân tộc trong mỗi ngươi Việt Nam lại bùng lên, kết lại thành sức mạnh cảu truyền thống nhân văn. Họ đặt quyền lợi tập thể lên trên lợi ích cá nhân mình. ….. viết vở Rừng Trúc vừa rồi không ngoài ý tưởng đó. Từ sâu thẳm của nhận thức, người Việt Nam ta hiểu rằng lợi ích cá nhân không khi nào toàn vẹn khi lợi ích của dân tộc bị xâm hại.
Tôi nghĩ người cầm bút có thể viết và cống hiến cho xã hội tùy theo khả năng của mình, nhưng cần phải sống sao cho xứng đáng với sự hy sinh của bao người để có được ngày hôm nay, và sống xứng đáng với ý thức dân tộc, với truyền thống văn hóa ngàn đời của người Việt Nam.
Phóng viên: Xin cảm ơn ông. Chúc ông nhiều sức khỏe.
Đ.T.N . St (Nguồn: Văn nghệ Quân đội )
BA BÀI THƠ TỨ TUYỆT - THƠ DUY PHI
NHỚ MỘT NHÀNH ĐÀO
Một trận sạch thù xuân trời đất
Vời trông xứ Huế nhớ người thương
Ý tình gửi én mong manh lắm
Lưng ngựa phi về vẹn sắc hương
---------------------------------------
Tương truyền : Vua Quang Trung sau đại thắng ,xuân Kỷ Dậu (1789)
cho lính phi ngựa từ Thăng LOng mang một nhành đào về Huế tặng
Ngọc Hân hoàng hậu
BÊN NHÀNH MAI TRẮNG
Cuối năm được bạn tặng mai
Biết chưa xứng vẫn chăm hoài đợi xuân
Đón giao thừa rũ phong trần
Trắng trong học lại đôi vần cùng hoa
HOA BƯỞI
Tí tách mưa xuân tỉnh giấc khuya
Mà nhớ thương ơi chẳng dễ về
Chợt lắng bồn chồn hoa bưởi rụng
Trinh trắng hồn quê ngát ngõ quê
DUY PHI
TIỄN
TIỄN
Cho tôi mượn sắc hoa đào
Mượn câu giã bạn tiễn chào xuân đi
Tiễn em qua thuở hàn vi
Về lau hàng lệ đẫm mi mẹ già
Gái tân đi vãn làng ta
Trai thanh lên phố vườn nhà bỏ hoang
Mỏi chân đi chẳng thấy làng
Nửa làng nửa phố họ hàng chốn nao?
NĐ
TIẾNG SÓNG
TIẾNG SÓNG
Con sông bóng dáng Thị Mầu
Đôi mắt lúng liếng ngàn sau không già
Một thời tắm gội phong ba
Bờ xanh tiếng sóng ...câu ca nổi chìm
Con sông bấy nghĩa bấy tình
Trăng vàng một mảnh trẫm mình dòng sâu
Lời yêu tưởng mãi mai sau
Chưa quen con sóng "qua càu gió bay"
Con sông một thủa hao gày
Đạn bom tơi tả, xéo cày đau thương
Nỗi đau ngược mãi về nguồn
Nửa đau tới bể, nửa buồn trăm năm
NĐ
Thứ Năm, 6 tháng 3, 2014
Đắt là đắt thuở NGÀY XƯA ... Dạ Thảo
Đắt là đắt thuở NGÀY XƯA ...
Dạ Thảo
Thế rồi
bao Tết qua đi
Thế rồi
giữ lại những gì tuổi thơ
Vẹn nguyên
mới đến tận giờ
Đón hào mừng tuổi
từng mơ vẫn còn
Giao thừa
pháo nổ vang giòn
Chạy mót tép pháo
lon ton sân nhà
Chúc tết
cô bác ông bà...
Mừng vui
cờ mở rợp hoa Hội làng
Áo quần
xúng xính rộn ràng
Cười tươi sung sướng,
xốn xang nô đùa
Thoắt thêm
mấy Tết mấy mùa
Là thêm mấy tuổi
cũng vừa biết yêu
Tết ấy,
người ấy quả liều
Dám đưa ánh mắt
gửi nhiều nhớ mong
Phải lòng
thầm hướng theo lòng
Dám cùng trăng,
dám chong chong cùng đèn
Thế rồi
giời chẳng xe duyên
Nên đành
lỡ nhịp lạc miền không nhau
Thật ư,
còn có kiếp sau?
Chắc vẫn người đó
"lần đầu" đón đưa
Đắt là đắt
thuở NGÀY XƯA
Đắt là đắt
cái tuổi vừa tròn trăng!
Ekaterinburg 02/03/201
Thứ Ba, 4 tháng 3, 2014
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)